Tag Archives: văn phạm căn bản

TRẠNG TỪ TRONG TIẾNG THỤY ĐIỂN

Trạng từ trong tiếng Thụy Điển thường viết hơi giống tính từ, nhưng chúng không bổ nghĩa cho danh từ, mà lại bổ nghĩa cho động từ hoặc cho tính tính.

Trạng từ thường đứng sau động từ hoặc trước tính từ. Nó cho biết mức độ, trạng thái và trả lời cho câu hỏi `như thế nào ?`. Trong ví dụ sau đây, trạng từ cho biết hành động xảy ra như thế nào :

Lena svarade mig vänligt.        Lena trả lời tôi nhã nhặn.

Johan stängde dörren snabbt.        Johan đóng cửa nhanh.

Per läser tidningen långsamt.        Per đọc báo chậm.

Trong tiếng Thụy Điển, từ một tính từ người ta có thể thành lập một trạng từ bằng cách thêm t:

TÍNH TỪ TRẠNG TỪ
Vänlig + t = Vänligt
Snabb + t = Snabbt
långsam + t = Långsamt

Trạng từ cũng có thể bổ nghĩa cho một tính từ, đó thường là những trạng từ:

Mycket ´rất´ và ganska ´tương đối´. (trong những ví dụ sau đây, vänlig và långsam là tính từ):

Lena är en mycket vänlig person.    Lena là một người rất nhã nhặn.

Per är ganska långsam.            Per tương đối chậm chạp.

TÍNH TỪ TRONG TIẾNG THỤY ĐIỂN

Tính từ (hoặc tĩnh từ) trong tiếng Thụy Điển là từ chỉ tính chất, màu sắc của người hoặc đồ vật. Ví dụ:

stor To, lớn liten Nhỏ, bé
Bra Hay, tốt, khỏe dålig Xấu, tồi tệ, bệnh tật
Ung Trẻ gammal Già, cũ
Snabb Nhanh, mau långsam Chậm
Dyr Đắt, mắc tiền billig Rẻ

Tính từ mô tả tính chất của một danh từ, hay nói cách khác: tính từ bổ nghĩa cho danh từ. Nó có thể đi trực tiếp trước danh từ hoặc gián tiếp sau danh từ (sau động từ är hoặc var). Ví dụ:

Jag ser en gammal hund.        Tô thấy một con chó già.

Hunden är gammal.            Con chó này già.

Du köpte en dyr klocka.            Bạn đã mua một chiếc đồng hồ đắt.

Klockan var dyr.            Đồng hồ này đắt.

Chú ý rằng: tính từ luôn đứng trực tiếp trước danh từ khi nó bổ nghĩa cho danh từ đó, trái hẳn với tiếng Việt !

Ngoài ra, tính từ còn biến dạng theo một cách đặc biệt. Vấn đề này sẽ trình bày ở chương 11.

ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG TRONG TIẾNG THỤY ĐIỂN

Trong tiếng Thụy Điển, động từ luôn luôn được phối hợp với một từ (hoặc một nhóm từ), từ này cho biết ai là người thực hiện hành động mà động từ đó mô tả.

Trong trường hợp đơn giản nhất, người ta dùng một trong những từ nhỏ rất quen thuộc gọi là đại từ nhân xưng hay nhân xưng đại danh từ (personliga pronomen). Vài ví dụ của đại từ nhân xưng là:

Jag skrattar.        Tôi cười.

Du skrattar.        Bạn cười.

Vi skrattar.        Chúng tôi cười.

Ni skrattar.        Các anh cười.

Trong nhiều ngôn ngữ khác, động từ chia theo đại từ nhân xưng. Còn tiếng Thụy Điển không có hiện tượng đó, vì vậy một mệnh đề tiếng Thụy Điển không thể thiếu đại từ được.

Han và hon cũng là hai đại từ quan trọng. Chúng chỉ dùng để ám chỉ người: han nếu là nam giới và hon nếu là nữ giới:

Vad gör Olle ?                Olle đang làm gì ?

Han åker buss.                Anh ấy đang đi xe buýt.

Vad gör Karin ?                Karin đang làm gì ?

Hon läser tidningen.            Cô ấy đang đọc báo.

Jag ser en pojke och en flicka.        Tôi thấy một cậu con trai và một cô con gái.

Han sjunger och hon spelar gitarr.    Cậu ta đang hát và cô ta đang chơi đàn ghi-ta.

Khi nói về thú vật hoặc đồ vật, người ta dùng hai đại từ khác là den và det. Den dùng cho danh từ -en, det dùng cho danh từ -ett:

Britta läser en bok.                Britta đọc một quyển sách.

Den heter ´Krig och fred´ och den är bra.    Nó tên là ´Chiến tranh và hòa bình´ và nó rất hay.

Olle köper ett paraply.                Olle mua một cái dù (cái ô).

Det är svart och det kommer från England.    Nó màu đen và nó từ nước Anh tới.

Khi nói về nhiều người hoặc nhiều đồ vật, người ta dùng chung một đại từ de. De là dạng số nhiều , dùng chung cho cả han, hon, den, và det:

Vad gör Karin och Olle ?            Karin và Olle đang làm gì ?

De dricker kaffe.            Họ đang uống cafe.

Sten åt två apelsiner.            Sten đã ăn hai quả cam.

De smakade got.            Chúng ngon.

De được phát âm hoàn toàn khác so với cách viết của nó. Thông thường đọc là dom (bằng một âm ô ngắn). Đôi khi dạng dom cũng dùng cả trong văn viết, nhưng không phải là dạng chính thức lắm.

De dricker kaffe. = Dom dricker kaffe.

Sau đây là bảng liệt kê tất cả các đại từ. Tốt nhất, bạn nên học thuộc lòng càng sớm càng tốt:

SỐ ÍT

SỐ NHIỀU

Jag Tao, tôi Vi Chúng tôi, chúng ta…
Du Mày, bạn… Ni Chúng mày, các anh…
Han Anh ấy, nó De Chúng nó, họ..
Hon Chị ấy, nó….
Den Nó (dùng cho danh từ en)
Det Nó (dùng cho danh từ ett)

Trong văn phạm, các đại từ trên còn được gọi là các ngôi:

Jag = ngôi thứ I số ít Vi = ngôi thứ I số nhiều
Du = ngôi thứ II số ít Ni = ngôi thứ II số nhiều
Han, hon = ngôi thứ III số ít De = ngôi thứ III số nhiều
Den, det

Tại sao cần phải học ngữ pháp Thụy Điển

Hãy thử nghĩ một trường hợp đơn giản như khi bạn muốn nói một vấn đề gì bằng tiếng Thụy Điển tại một thành phố nhỏ ở Thụy Điển, nơi bạn chưa hề đến trước đây, bạn không biết đường và cũng không có bản đồ của thành phó đó. Hãy cho rằng thành phố đó có ngân hang, bưu điện, nhà ga, công viên, bệnh viện.v.v… Nếu không tìm thấy ngân hang, bạn có thể hỏi một người nào đó đang đi trên đường :

+ Uksäkta, var är banken ? (Xin lỗi ngân hàng ở đâu ?)

Bạn phải học những gì để có thể tự thành lập được những câu như thế bằng tiếng Thụy Điển ? Hiển nhiên bạn có thể nhớ cả câu Var är banken ? . Nhưng cách học thuộc lòng như thế sẽ làm bạn mệt óc với những câu quá dài. Nếu so sánh những câu hỏi sau đây, bạn sẽ thấy chúng đều giống như câu hỏi thứ nhất:

Var är posten ? (Bưu điện ở đâu ?)

Var är järnvägsstationen ? (Nhà ga ở đâu ?)

Var är torget ? (Quảng trường ở đâu ? /Chợ trời ở đâu ? )

Var är Kalle ? Kalle ở đâu ?

Những câu hỏi trên bao gồm ba từ : từ ‘var’ ở đâu dùng để hỏi về vị trí, là một nghi vấn từ. Hai từ còn lại sẽ sẽ nói ở đoạn sau. Ngoài ra còn có những nghi vấn từ như :

+ När : khi nào

+ Vem : ai ,

  • Dùng để hỏi về thời gian và con người :

+ När är Kalle hemma ? Khi nào Kalle ở nhà ?

+Vem är Kalle ? Ai là Kalle ?

Để thành lập một câu hỏi đúng bằng tiếng Thụy Điển, bạn không chỉ phải biết ý nghĩa của từ ngữ mà còn phải biết sắp đặt đúng phương pháp, việc này gọi là cách sắp đặt từ trong câu Thụy Điển. Bằng cách sắp đặt từ trong câu rất quan trọng trong tiếng Thụy Điển. Trong tất các các ví dụ trên, nghi vấn từ đều đứng trước ( không giống như tiếng Việt) . Từ är phải đứng vị trí số 2 và không thể đứng ở vị trí nào khác :

Hỏi như thế này là sai : Banken är var ?

Tuy nhiên, tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác lại cho phép viết như vậy. Không phải câu hỏi nào cũng chứ từ är. Những câu như sau là những câu đúng:

När somnar Kalle ? Kalle ngủ lúc nào ?

När vaknar Kalle ? Kalle thức dậy lúc nào ?

Var arbetar Kalle ? Kalle làm việc ở đâu ?

Var bor Kalle ? Kalle sống ở đâu ?

Những từ bạn có thể đặt ở vị trí của är được xếp cùng một loại, loại này được gọi là động từ. Hầu hết các động từ đều diễn tả sự hoạt động hoặc việc xảy của một vấn đề nào đó. Vì thế, có thể phát biểu một qui tắc như sau: nghi vấn từ luôn luôn đứng ở đầu câu trong câu hỏi, và động từ thường phải đứng ở vị trí số 2. Đó là một ví dụ cụ thể cho vấn đề gọi là cách sắp đặt từ trong ngữ pháp Thụy Điển. Hãy xem ví dụ sau đây :

Varför kom Joakim hem så sent i går kväll ? Tại sao Joakim đã về nhà trễ đến thế vào tối hôm qua ?

Câu này rườm ra hơn những câu trước, nhưng động từ vẫn đứng vị trí số 2. Do đó cách sắp đặt từ trong câu có thể được trình bày bằng một sơ đồ như sau

NGHI VẤN TỪ ĐỘNG TỪ
När Somnar Kalle?
Var Bor Kalle?
Vem är Kalle?

Bạn hãy tự tập đặt những câu hỏi khác với những người khác, trong đó có các nghi vấn từ và động từ sau đây ( bạn tự tìm lấy những tên riêng) :

Nghi vấn từ :

Var : khi nào        Vem: ở đâu

När : ở đâu        Vad: cái gì

Động từ:

Dansar: khiêu vũ        Sjunger: hát

Äter: ăn            Dricker: uống

Skriver: viết            Läser: đọc

Sau đây là vài câu hỏi mà bạn cũng có thể tự thành lập được:

Vad dricker Kalle ? Kalle uống gì ?

Var dansar Kalle ? Kalle khiêu vũ ở đâu ?

Vem läser ? Ai đọc ?

Nếu thay đổi những động từ và những tên riêng khác nhau để thay thể cho Kalle theo qui tắc đơn giản trên, bạn có thể đặt được hàng trăm câu hỏi có những nghi vấn từ trên. Đó là một nét tiêu biểu cho những qui tắc quan trọng trong văn phạm hay ngữ pháp Thụy Điển. Nếu biết được những qui tắc đó, bạn có thể lập được vô só những lời nói mà trong văn phạm gọi là câu và mệnh đề.

Phải học những gì để nói được tiếng Thụy Điển

Để nói được một ngôn ngữ mới, bạn cần phải học nhiều vấn để. Trước hết là từ vựng (ordförråd). Trong tiếng Thụy Điển có một số từ quốc tế nên chúng khá giống với nhiều ngôn ngữ khá.

Ví dụ: hotell, bank, station, turist, radio, television (khách sạn, ngân hàng, nhà ga, du khách, truyền thanh, truyền hình). Tuy vậy, hầu hết từ ngữ của tiếng Thụy Điển không giống với các ngôn ngữ khác, đặc biệt là những từ thông dụng như: vara, ha, få, ge, dag, tid, år , hus, pojke, flicka…( là/ở, có, được/bị, cho, ngày, thời gian, năm, ngôi nhà, con trai, con gái…) Chỉ những ngôn ngữ cùng họ với tiếng Thụy Điển như tiếng Đức, tiếng Anh mới có khá nhiều từ ngữ giống nhau, nhưng nhìn chung, việc học những từ ngữ mới là một việc lâu dài.

Để thực hiện được một cuộc đàm thoại đơn giản một cách dễ dàng, bạn cần phải biết ít nhất vài ngàn từ. Để đọc hiểu được một tờ nhật báo tiếng Thụy Điển bạn cần phải biết khoảng 30.000 từ.

Đôi khi bạn phải phỏng đoàn xem những từ mới có nghĩa là gì và cũng nên dùng một quyển từ điển (ordbok) để tìm lại xem những từ đó bạn đã phỏng đoán đúng hay sai, Bạn cũng nên dùng một quyển sổ từ (glosbok) để ghi chép từ ngữ mới và dịch nghĩa sang tiếng Việt.

Khi nói các từ ngữ được hình thành bởi nhiều âm. Ví dụ: các âm b+a+n+k hình thành từ bank (ngân hàng). Trong tiếng Thụy Điển có nhiều âm tương đối dễ đọc vì chúng giống hoặc gần giống các ngôn ngữ khác. Còn một số âm như : ö, y, đặc biệt là u [như trong từ hus ] thì thiếu hẳn sự tương xứng với nhiều ngôn ngữ khác. Hoc cách phát âm (uttal) những âm mới này là một vấn đề quan trọng trong việc học tập tiếng Thụy Điển . Cách phát âm sẽ được viết tỉ mỉ ở chương 8

Một vấn để khác nữa là mẫu tự hay còn gọi là chữ cái (alfabet) và cách viết (stavning). Thông thường, có thể nói mỗi mẫu tự có một âm riềng, Tuy vậy vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Vài mẫu tự như c và z thường đọc bằng cùng một âm như mẫu tự s, đôi khi c có cùng âm với k. Có nhiều âm lại thiếu hẳn mẫu tự riêng, chúng được viết bằng cách phối hợp nhiều mẫu tự với nhau. Ví dụ như mẫu tự ghép sj và skj ( sẽ được mô tả ở chương 8), những âm này được viết ở đầu các từ như :

Sjal (khăn choàng nữ)                        skjorta (áo sơ mi)

Trường độ và trọng âm là hai vấn đề rất quan trọng trong cách phát âm. Chúng không hiển rõ trong văn viết nên có thể bạn không để ý tới, nhưng chúng là vấn đề cơ bản cho việc phát âm chúng.

Bạn hãy đọc kỹ đoạn 8.3, điều này sẽ được giải thích rõ hơn. Ở đây chúng tôi có thể giải thích ngắn gọn về trường độ và trọng âm trong tiếng Thụy Điển như sau :

Sil có âm i là âm dài

Sill có âm i là âm ngắn

Sự khác biệt giữa âm dài và âm ngắn rất quan trọng đối với các nguyên âm (xem phần 8.1). Ngoài ra người ta cũng có thể nghe được sự khác nhau trong âm độ của một số phụ âm, chẳng hạn như âm 1 trong ví dụ trên, âm 1 ngắn của sil và dài của sill. Điều này sẽ được giải thích ở chương 8 vể cách phát âm.

Để dễ học cách phát âm tiếng Thụy Điển, những từ mới có thể được viết thêm những dấu hiệu đặc biệt, chúng cho biết đó là một nguyên âm dài hay là một nguyên âm ngắn.

Những dấu hiệu như thế được sử dụng ở một số bài học văn phạm trong blog này, nhưng người ta không bao giờ viết những dấu hiệu đó ra trong những bài văn viết thông thường, Một nguyên âm dài được đánh bên dưới bằng dầu trừ và nguyên âm ngắn bằng dấu chấm ). Ví dụ như sau :

Sil         Sịll

Để nói được một ngôn ngữ mới, bạn cũng phải học cách phối hợp các từ thành một từ khác, một mệnh đề khác hoặc thành một câu khác, điều này sẽ được mô tả lần lượt trong blog này.